THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

1.1. Thực trạng quy định pháp luật

1.1.1. Quy định về nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm dân sự

Nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa được quy định tại Điều 247 Bộ luật TTDS 2015. Nhìn vào quy định của pháp luật, có thể thấy BLTTDS đã quy định rất chi tiết nội dung của tranh tụng từ việc trình bày chứng cứ cho đến việc phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, quy định rất rõ nội dung, trình tự, thủ tục tranh tụng đều phải tuân theo sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa. Trong quá trình tranh tụng thì các chủ thể của TTDS phải tranh tụng trên cơ sở dân chủ, bởi đã tranh tụng là phải bình đẳng và trình tự, thủ tục phải rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các đương sự thực hiện tốt khi tham gia TTDS.[1] BLTTDS 2015 đã có bổ sung quan trọng về nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa. Điều luật quy định tranh tụng tại phiên tòa bao gồm trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của VADS, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án.

Chủ thể của tranh tụng trong TTDS là các bên đương sự, họ giữ vai trò chủ động, quyết định kết quả tranh tụng. Tòa án phải thực hiện đúng chức năng của mình là người phán tài công minh, xem xét, đánh giá đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, căn cứ pháp lí, lí lẽ, lập luận mà các bên đưa ra trong quá trình tranh tụng. Tòa án có vai trò quan trọng trong việc điều khiển quá trình tranh tụng diễn ra một cách rõ ràng, trung thực. Bên cạnh đó Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền là lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử.[2]

Phạm vi tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm là giới hạn những vấn đề mà các bên tham gia tranh tụng có yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu và phải làm rõ bằng các chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lý lẽ, lập luận. Việc xác định rõ phạm vi tranh tụng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Khi xác định đúng phạm vi tranh tụng sẽ giúp cho các bên tranh tụng đi đúng hướng trong việc tranh tụng, tránh sa lầy vào các vấn đề không cần thiết. Đối với Tòa án, việc xác định đúng phạm vi tranh tụng sẽ giúp đảm bảo cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa thật sự có hiệu quả và kết thúc vụ án một cách nhanh nhất.[3]

1.1.2. Thứ tự và nguyên tắc hỏi tại phiên tòa dân sự sơ thẩm

Thứ tự và nguyên tắc hỏi tại phiên tòa dân sự sơ thẩm được quy định tại Điều 249 BLTTDS 2015 có nhiều nội dung sửa đổi bổ sung so với quy định tại Điều 244 BLTTDS 2004, sửa đổi bổ sung 2011. Việc thay đổi này nhằm cụ thể, rõ ràng và thể hiện nguyên tắc tranh tụng trong TTDS, tôn trọng ý kiến của đương sự. Điều này khẳng định rõ chủ tọa phiên tòa là người chịu trách nhiệm điều hành việc hỏi tại phiên tòa. Thứ tự hỏi được thay đổi, nếu như theo quy định của BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến Hội thẩm nhân dân, sau đó đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự và những người tham gia tố tụng khác; trường hợp có Kiểm sát viên tham gia phiên tòa thì Kiểm sát viên hỏi sau đương sự[4] thì theo BLTTDS 2015 nhằm cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm trong xét xử, Điều luật đã cụ thể nguyên tắc trong hoạt động xét xử tại phiên tòa theo hướng các đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được hỏi trước, sau đó đến người tham gia tố tụng khác rồi đến chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân, cuối cùng là Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.[5]

Việc sắp xếp thứ tự hỏi như vậy một mặt đề cao nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, mặc khác tăng thêm quyền của đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong phiên tòa, bởi họ là chủ thể của hoạt động tranh tụng. Đồng thời cũng đề cao trách nhiệm chứng minh của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Do đó, vai trò của Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên tại tòa cũng có sự thay đổi nhất định. Từ chỗ trước đây việc hỏi chủ yếu là của Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên thì nay việc hỏi chủ yếu thuộc về các đương sự, Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên chỉ hỏi những vấn đề chưa rõ hoặc còn mâu thuẫn.

Như vậy BLTTDS 2015 đã có thay đổi đột phá về thứ tự hỏi tại phiên tòa, thể hiện rõ hơn tinh thần bảo đảm tranh tụng trong phiên tòa. Tuy nhiên để quy định này thực hiện có hiệu quả trên thực tế cần có lộ trình bởi trình độ hiểu biết pháp luật của đa số đương sự hiện nay chưa cao, do đó việc đặt câu hỏi để làm rõ các vấn đề mấu chốt của vụ án không phải là điều đơn giản, đặc biệt đối với các vụ án không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tham gia.[6]

1.1.3. Hỏi nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng.

* Hỏi nguyên đơn

Theo điều 250 BLTTDS quy định về việc hỏi nguyên đơn. Nguyên đơn là người đưa ra yêu cầu, là người trình bày nội dung sự việc và chứng cứ trước nên họ phải là người được hỏi trước tiên; trường hợp có nhiều nguyên đơn thì phải hỏi riêng từng nguyên đơn. Trong quy định này thể hiện được tinh thần của cuộc tranh tụng. Theo đó nguyên đơn sẽ trả lời, trình bày các vấn đề mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, nguyên đơn trình bày chưa rõ, có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với lời trình bày của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này. Khi được hỏi, tùy theo khả năng của mình nguyên đơn có thể tự trả lời hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trả lời thay cho nguyên đơn và sau đó nguyên đơn bổ sung. Quy định này nhằm giúp nguyên đơn có thể bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên nếu khi được hỏi nguyên đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn không trả lời câu hỏi hoặc từ chối trả lời thì có thể xem họ đã từ bỏ quyền chứng minh đối với vấn đề được hỏi.

* Hỏi bị đơn

Hỏi bị đơn được quy định tại Điều 251 BLTTDS 2015. Bị đơn là người phải trả lời về việc kiện của nguyên đơn nên bị đơn là người được hỏi sau nguyên đơn. Tương tự như với quy định hỏi nguyên đơn, trong trường hợp có nhiều bị đơn thì phải hỏi riêng từng bị đơn. Chỉ hỏi về những vấn đề mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày chưa rõ, có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với lời khai của họ trước đó, mâu thuẫn với yêu cầu, lời trình bày của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này. Cũng tương tự như nguyên đơn bị đơn có thể tự mình trả lời hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trả lời thay cho bị đơn và sau đó bị đơn trả lời bổ sung. Khi được hỏi bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn không trả lời câu hỏi hoặc từ chối trả lời thì có thể xem họ đã từ bỏ quyền chứng minh đối với vấn đề được hỏi.

*Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan

Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quy định tại Điều 252 BLTTDS 2015. Mục đích của tranh tụng ở phiên tòa là để xem xét, kiểm tra, xác minh các tài liệu, chứng cứ của vụ án, đồng thời thông qua thủ tục hỏi làm sáng tỏ những tình tiết tranh chấp. Do đó cần phải hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cũng tương tự như hỏi nguyên đơn và bị đơn. Có thể thấy pháp luật quy định về thủ tục hỏi của cả ba chủ thể này đều có những điểm tương tự nhất định. Từ đó cho thấy rằng việc quy định như vậy nhằm bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể trong tranh tụng để họ có thể làm sáng rõ hơn các tình tiết liên quan đến vụ án để Tòa có phán quyết chính xác nhất.

*Hỏi người làm chứng

Người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ án được đương sự đề nghị, Tòa án sẽ triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Theo quy định tại Điều 253 BLTTDS về việc hỏi người làm chứng gần như giữ nguyên so với BLTTDS 2004, chỉ bổ sung khoản 5 nhằm xác định rõ việc đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của được sự được hỏi người làm chứng sau khi được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. Quy định này được bổ sung tăng thêm quyền của đương sự. Để bảo vệ yêu cầu của mình thì việc hỏi người làm chứng của đương sự sẽ góp phần làm rõ tính khách quan của người làm chứng.

Để có tính khách quan trong lời khai của người làm chứng thì trước khi hỏi người làm chứng, chủ tọa phiên tòa phải hỏi rõ về quan hệ giữa họ với các đương sự trong vụ án; nếu người làm chứng là người chưa thành niên thì chủ tọa phiên tòa có thể yêu cầu cha, mẹ, người giám hộ giúp đỡ để hỏi. Mặt khác, để đảm bảo tính khách quan trong lời khai của người làm chứng và tránh lời khai của đương sự và người làm chứng có ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ tọa phiên tòa có thể quyết định những biện pháp cần thiết để những người làm chứng không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan hoặc cách ly đương sự với người làm chứng trước khi hỏi người làm chứng.

1.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật tố tụng dân sự về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm dân sự

1.2.1. Những kết quả đạt được

Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được quy định tại Điều 24 BLTTDS 2015 được Toà án các cấp chú trọng trong quá trình xét xử các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại (gọi chung “dân sự”), hành chính, lao động… Điểm tích cực trong các phiên toà này là Hội đồng xét xử cố gắng bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong một số vụ án dân sự, Toà án các cấp đã đảm bảo cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện đầy đủ quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; được trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Bộ luật này. Trong quá trình xét xử, các tài liệu, chứng cứ được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định. Tại các phiên tòa dân sự, Hội đồng xét xử đã tạo điều kiện cho các bên trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án, không hạn chế thời gian tranh tụng theo Điều 247 BLTTDS, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình bày hết ý kiến. Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận, thực hiện đúng quy định tại Điều 263 BLTTDS 2015.[7]

1.2.2. Những hạn chế

Bên cạnh kết quả đáng ghi nhận nêu trên, đánh giá một cách thực chất, vẫn còn khoảng cách nhất định giữa chủ trương của Đảng, tinh thần và nội dung của nguyên tắc tranh tụng với thực tiễn xét xử. Vấn đề mấu chốt là mặc dù tên gọi của nguyên tắc này là “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, nhưng mức độ và phạm vi những vấn đề tranh tụng đã mở rộng ngay từ khi vụ án được khởi tố chứ không chỉ diễn ra tại phiên tòa xét xử công khai.

Mặt khác, để bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng, nội dung điều luật này quy định mọi chứng cứ giữa hai bên buộc tội và gỡ tội đưa ra đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Trong một số vụ án, sau khi xét hỏi, tranh luận và đối đáp đã phát sinh các chứng cứ mới nhưng bản án, quyết định của Tòa án chưa xem xét, đánh giá mà vẫn bảo lưu quan điểm buộc tội, dẫn đến tiềm ẩn phát sinh oan, sai trong tố tụng. Đối với một số vụ án tham nhũng, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, quá trình trưng cầu và ban hành kết luận giám định còn nhiều khác biệt, dẫn đến hiện vẫn tồn tại nhiều bản án có đánh giá khác nhau về xác định hậu quả thiệt hại vụ án vào thời điểm xảy ra sai phạm hay thời điểm khởi tố vụ án.

Liên quan đến các phiên tòa dân sự, bên cạnh những kết quả nêu trên, vẫn còn tình trạng thụ lý, giải quyết vụ án kéo dài, có những vụ mà tác giả là người bảo vệ quyền lợi kéo dài tới hơn 10 năm chưa giải quyết xong. Bản án, quyết định của Tòa án là sản phẩm kết tinh của quá trình tranh luận, đối đáp tại phiên tòa, nhưng tỷ lệ án bị hủy, sửa trong tố tụng dân sự và hành chính vẫn còn nhiều, đơn khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm còn tồn đọng lớn, phản ánh chất lượng xét xử của Tòa án các cấp còn hạn chế.

[1] Phạm Thanh Răng (2018), Vai trò của Kiểm sát viên trong tranh tụng và phát biểu quan điểm tại phiên tòa dân sự, ngày đăng 25/10/2018, https://www.vksndcamau.gov.vn/cong-tac-nghiep-vu/trao-doi-nghiep-vu/vai-tro-cua-kiem-sat-vien-trong-tranh-tung-va-phat-bieu-quan-diem-tai-phien-toa-dan-su, truy cập ngày 24/05/2022.

[2] Hoàng Minh Công, Một số ý kiến về tranh tụng tại phiên tòa trong BLTTDS 2015, http://vksquangninh.gov.vn/component/content/article/270-cac-d-o-lu-t-tu-phap-m-i/2220-m-t-s-y-ki-n-v-tranh-t-ng-t-i-phien-toa-trong-b-lu-t-t-t-ng-dan-s-nam-2015, truy cập ngày 24/05/2022.

[3] Nguyễn Thị Thu Hà (2011), Tranh tụng trong TTDS ở Việt nam trước yêu cầu cải cách tư pháp, đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.12.

[4] Điều 222 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011

[5] Điều 249 BLTTDS 2015.

[6] Bùi Thị Huyền (2016), Bình luận Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, NXB Lao Động, Hà Nội, tr.332.

[7] Luật sư, Tiến sĩ Phan Trung Hoài, Bảo đảm thực hiện tranh tụng trong xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí điện tử Luật sư Việt nam, ngày đăng 11/01/2021, https://lsvn.vn/bao-dam-thuc-hien-tranh-tung-trong-xet-xu-nang-cao-chat-luong-tranh-tung-tai-phien-toa1641879110.html, truy cập ngày 24/05/2022.

"Sản phẩm thuộc FTC Việt Nam. Lưu hành nội bộ"